Vua mất nước Tống_Cung_Đế

Sư tướng đốc chiến

Ngày Giáp Thân (13 tháng 8), Tạ thái hậu phong vương cho các con của Độ Tông; Triệu Thị làm Cát vương; Triệu Bính làm Tín vương. Ngày Bính Tuất (15 tháng 8), tôn Tạ thái hậu là thái hoàng thái hậu, Toàn hoàng hậu trở thành hoàng thái hậu[6].

Lúc này thì Tương Dương, Phàn Thành đã thất thủ, Lưỡng Hoài hầu như bị quân Nguyên kiểm soát. Nguyên Thế Tổ lấy cớ Giả Tự Đạo bội ước, cử Bá Nhan thống chế các lộ binh mã gồm 20 vạn quân, có hàng tướng Lưu ChỉnhLã Văn Hoán dẫn đường; tiến xuống phía nam. Tháng 9 ÂL năm đó, Bá Nhan hội quân ở Tương Dương, chia quân ba đạo vượt sông. Triều Tống bại hết trận này đến trận khác, sĩ khí sút kém hẳn.

Tháng 11 ÂL, triều Tống lấy Vương Dược, Chương Giám làm Tả Hữu thừa tướng; đó đều là quyết định của Giả Tự Đạo. Lúc này thì quân Nguyên chiếm Sa Dương, Tân Thành, Vân An, La Củng, Cao Dương, nhiều tướng tuẫn tiết. Bá Nhan tiến chiếm Phúc châu, Hạ QuýVương Đạt chỉ cầm chân họ được nhất thời. Nhưng vận số của triều Tống đã hết, không thể chống giữ được bao lâu. Tháng 12 ÂL, Bá Nhan đưa quân từ Hán Khẩu, đánh bại quân Tống rồi đóng 10 vạn quân kị ở Giang Bắc, lại sai A Lý Hải Nhai cùng Trương Hoằng Phạm tiến đánh Dương La Bảo, giết Vương Đạt; sau đó A Thuật dẫn đại quân vượt Trường Giang. Bá Nhan chuẩn bị lấy Kinh Hồ còn mình và A Thuật đưa quân thẳng tiến vào Lâm An. Cả thành Lâm An chấn động. Triều đình lo sợ, ba thái học sinh cùng đa số quần thân liên danh đề nghị sư tướng đốc quân. Giả Tự Đạo bị thúc ép, đành phải chấp nhận. Thái hậu hạ chiếu cho Giả Tự Đạo, Tôn Hổ Thần dẫn quân, mở kho lấy 10 vạn lạng vàng, 50 vạn lạng bạc, 1000 vạn tiến chuyển sang kho đô đốc để tiện sử dụng; lại hạ lệnh thiên hạ cần vương[4][6]. Sau đó lấy Cao Đạt làm Hồ Bắc chế trí sứ. Lúc này Hoàng châu và Kì chầu đã đầu hàng người Nguyên[7].

Đầu năm 1275, thành Giang châu thất thủ, Phạm Văn Hổ ở An Khánh quân hàng giặc. Giả Tự Đạo nấn ná chưa dám ra trận; đến lúc Lưu Chỉnh chết, Tự Đạo nghĩ quân Nguyên không còn người dẫn đường bèn ra quân đánh giặc. Tập trung 13 vạn tinh binh cùng lên đường, có sự trợ giúp của Hạ QuýUông Lập Tín. Tự Đạo sau đó cử Tống Kinh đến doanh trại quân Nguyên xin xưng thần, triều cống nhưng Bá Nhan không cho.

Sau đó quân Nguyên tiếp tục tiến quân, vây khốn Trì châu, tướng Triệu Mão tuẫn tiết. Giả Tự Đạo sai Hạ Quý, Tôn Hổ Thần đi trước, còn mình ở phía sau. Tôn Hổ Thần ra trận thất lợi, Hạ Quý ngồi nhìn không cứu. Quân Tống bị đại bác bắn phá ác liệt, bị rối loạn và thảm bại. Giả Tự Đạo cũng thu quân, giữa đường bị quân Nguyên đuổi riết, thương vong vô số. Tự Đạo bèn cùng Tôn Hổ Thần lui về Dương châu, cho treo cờ triệu tập ba quân mà chả ai thèm đến[7]. Quân Nguyên đánh vào Nhiêu châu, Lâm Giang, Trấn Giang, Ninh Quốc, Long Hưng, Giang Âm, các châu Thái Bình, Hòa châu lần lượt bị mất.

Giả Tự Đạo dâng sớ xin dời đô, thái hoàng thái hậu không theo, đến tháng 3 ÂL Hàn Chấn cũng dâng biểu, thái hoàng thái hậu mới triệu tập quần thần bàn định. Tể tướng Vương Dược muốn cố thủ, Hàn Chấn phản đối và bỏ đi. Khi đó có thái học sinh dâng biểu xin tử thủ Lâm An, việc dời đô mới phải hoãn lại. Lúc này chư lộ vẫn bất động chờ thời, không dám đưa quân cần vương, chỉ có Lý Đình Chi, Trương Thế Kiệt, Văn Thiên Trường, Lý Phất đem quân về cứu. Thế Kiệt đưa quân lấy lại Nhiêu châu thì Trần Nghi Trung nghi ngờ Thế Kiệt nên dời ông tới điều khiển tân quân. Hữu thừa tướng Chương Giám bỏ trốn[4], triều đình lấy Trần Nghi Trung tri Xu mật viện sự.

Giả Tự Đạo thất thế

Quân Nguyên nhanh chóng chiếm được Đông Kinh Kiến Khang. Uông Lập Tín lui về Cao Bưu tính kế giữ Giang Hán, nhưng gần hết các châu Giang Hán lúc này đã hàng Nguyên. Bá Nhan chiếm được Kiến Khang và chiêu hàng được Quảng Đức quân, Từ châu, Ninh Quốc, Hàng Hưng, Hòa châu, Vô Vi quân, Liên châu, Thường châu, phủ Bình Giang. Lúc này Giả Tự Đạo bí thế, đã phải xin trả lại ấn tín. Trần Nghi Trung tưởng Tự Đạo đã chết nên dâng sớ kể tội. Thái hoàng thái hậu miễn chức Bình chương chính sự của Tự Đạo, giáng Lễ Toàn quan sứ. Mọi việc làm hại dân của Tự Đạo trước kia đều xóa bỏ, ruộng trả về điền chủ.

Triều đình dùng Vương Dược, Trần Nghi Trung là Tả, Hữu thừa tướng.Thị ngự sử Trần Quá, giám sát ngự sử Phan Văn Khanh... xin giết Giả Tự Đạo và trị tội đám bè đảng. Thái hoàng thái hậu cho giam Ông Ứng Long vào ngục rồi đánh trượng đày ra Cát Dương quân, bãi chức Oánh Trung, Vương Đình, Lưu Lương Quý, Trần Bá Đại, Du Vấn, Chu Tuấn, Đổng Phác..., phóng thích những người bị Tự Đạo hãm hại, phục quan chức cho Ngô TiềmHướng Sĩ Bích. Lại sai người đến chỗ Lã Văn Phúc lệnh đem quân về bảo vệ Lâm An, Văn Phúc chém sứ giả, không nhận lệnh, sau đó hàng Nguyên. Quân Nguyên đã tới rất gần, toàn thành Lâm An được đặt trong tình trạng giới nghiêm, các đại thần lần lượt bỏ trốn. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, tự tay viết chiếu răn đe nhưng tình trạng quan lại bỏ trốn cũng không sao ngăn cấm được[7]. Triều đình lại phải hạ lệnh xá miễn cho những tướng đã hàng giặc, ra điều kiện nếu ai thu phục lại được 1 châu sẽ cho làm tri châu, thu phục lại 1 huyện cho làm tri huyện, sở bộ liêu lại và tướng sĩ, thổ hào theo giúp đều có thưởng, nhưng chẳng ai hưởng ứng. Quân Nguyên nhanh chóng chiếm được Lạc châu, Trừ châu, Chân châu, phủ Ninh Quốc, Quảng Đức quân và cả phủ Giang Lăng.

Vào tháng 7 ÂL, thai gian thị thần và ba thái học sinh xin giết Giả Tự Đạo, thái hoàng thái hậu không theo. Tự Đạo dâng biểu xin bảo toàn tính mạng và đổ tội cho Hạ Quý, Tôn Hổ Thần. Triều đình bắt Giả Tự Đạo phải về đất Việt chịu tang mẹ, Tự Đạo nấn ná ở Dương châu không đi. Vương Dược dâng sớ kể tội Tự Đạo bất trung bất hiếu; thái hoàng thái hậu hạ lệnh giáng Tự Đạo ba cấp quan, đày ra Vụ châu rồi phủ Kiến Ninh. Triều đình lại hạ lệnh chém đầu Ông Ứng Long, đày Vương Đình, Oánh Trung ra Lĩnh Nam[7]. Lại giáng Tự Đạo làm Cao châu Đoàn luyện sứ, phát vãng ra Tuần châu, tịch biên gia sản. Phúc vương Dữ Nhuế vốn oán Tự Đạo, nên sai Trịnh Hổ Thần làm giám áp ban lo việc áp giải rồi thừa cơ giết chết Tự Đạo trên đường[8]. Lúc này hai tể tướng xin từ chức, thái hoàng thái hậu cố lưu lại, phong Vương Dược là Bình chương quân quốc trọng sự, một tháng hai lần tới Kinh diên, năm ngày lên triều một lần; Trần Nghi Trung, Lưu Mộng Viêm đổi làm Tả, Hữu thừa tướng. Vương Dược đề nghị cho hai tể tướng ra đốc sư Ngô Môn, Trần Nghi Trung tìm cớ trì hoãn. Lúc này đại thần Lưu Cửu Cao dâng sớ kể tội Nghi Trung là bè đảng của Giả Tự Đạo và làm hỏng việc nước, Nghi Trung tức giận bỏ đi. Lưu Cử Cao liền bị tống vào ngục, thái hoàng thái hậu bảo mẹ Nghi Trung là Dương thị gọi Nghi Trung về. Còn Vương Dược xin bãi chức Bình chương, được đổi phong thiếu bảo, Quan Văn điện học sĩ, Lễ tuyền quan sứ, ít lâu sau thì qua đời.

Liên tiếp thất bại

Trương Thế Kiệt được cử làm Tổng đô đốc phủ chư quân, chống cự với quân Nguyên, Hạ Quý làm Xu mật phó sứ, Lưỡng Hoài tuyên phủ đại sứ; Chu Hoán hỗ trợ, Lý Đình Chi được lệnh về triều. Hạ Quý không phụng chiếu, Đình Chi không về. Trần Văn Long trở thành đồng Thiêm thư Xu mật viện sự thay cho Cao Tư Đắc, Văn Thiên Trường là Binh bộ thượng thư. Quân Nguyên lúc này đã tới rất gần. Khi đó quân Tống có thu phục lại một số đất đai nhưng chẳng thấm tháp vào đâu so với các phần đã bị mất.

Triều đình cử Văn Thiên Trường ra trấn thủ Bình Giang. Các tướng Tôn Hổ Thần, Khương Tài lần lượt bị chết; quân Nguyên chiếm Thái châu, Lữ Thành, Thường châu, chia quân vào Lâm An. Triều đình dùng Trương Thế Kiệt, Lưu Sư Dũng ra trận. Vào tháng 10 ÂL, Lưu Mộng ViêmTrần Nghi Trung được phong làm Tả, Hữu thừa tướng[9] Lúc đó các châu quận Giang Tây lần lượt thất thủ; Văn Thiên Trường và Trương Thế Kiệt tính kế, coi Hoài đông là tường chẳn, quyết giữ bằng được Mân, Quảng để tính kế khôi phục. Trần Nghi Trung lại không chấp nhận. Tả thừa tướng Lưu Mộng Viêm lúc này bỏ trốn luôn, triều đình dùng Ngô Kiên lên thay chức.

Đầu năm 1276, Bá Nhan tiến chiếm Bình Giang, Trương Thế Kiệt đưa quân về triều hộ vệ. Triều đình bắt đầu tính việc nghị hòa. Trần Nghi Trung sai Lục Tú Phu, Lã Sư Mạnh cùng Liễu Nhạc đến trại quân Nguyên xin nghị hòa, xưng nước bác nước cháu, nếu không thì là nước ông nước cháu chỉ xin bãi binh, Bá Nhan không nghe. Nghi Trung lại xin thái hoàng thái hậu dâng biểu cầu phong, xưng thần, cắt đất nộp thuế là 25 vạn, thái hậu đành phải chấp nhận. Khi đó Đàm châu đã thất thủ, Hồ Nam trấn phủ đại sứ Lý Phất tử tiết, quân Nguyên đã ở trước thành Lâm An. Trần Văn Long, Hoàng Dung cùng nhau bỏ trốn, triều đình lúc này chẳng còn bao nhiêu người.

Lâm An thất thủ

Thái hoàng thái hậu sai Giám sát ngự sử Lưu Ba sang gặp Bá Nhan xin xưng thần, dâng tôn hiệu cho Nguyên chủ, cống nạp bạc lụa mỗi thứ 25 vạn, Bá Nhan không chịu, đòi vua tôi nhà Tống ra hàng. Văn Thiên Trường xin dùng Cát vương, Tín vương ra trấn giữ Mân Quảng để tính việc khôi phục. Ban đầu thái hoàng thái hậu không chịu, đến đây tông thất nhiều người cầu xin nên mới chấp nhận, đổi Cát vương Thị là Ích vương giữ Phúc châu, Tín vương Bính làm Quảng vương giữ Tuyền châu[9]. Trần Nghi Trung dẫn đầu quần thần xin dời đô, thái hoàng thái hậu ban đầu không nghe nhưng sau suy nghĩ lại nên cho triệu Nghi Trung, Nghi Trung lại không đến. Văn Thiên Trường, Trương Thế Kiệt bàn việc tam cung ra biển, Nghi Trung từ chối và xin thái hoàng thái hậu sai giám sát ngự sử Dương Ứng Khuê đem ngọc tỉ truyền quốc đầu hàng, đồng ý bỏ đế hiệu chỉ xin bảo toàn tông miếu. Bá Nhan triệu Trần Nghi Trung đến bàn việc hàng phục nhưng ngay đêm đó Nghi Trung đã bỏ chạy về Ôn châu. Trương Thế Kiệt, Tô Lưu NghĩaLưu Sư Dũng thấy triều đình chưa đánh đã hàng thì thất vọng, lên thuyền ra biển. Thái hoàng thái hậu cử Văn Thiên Trường làm Hữu thừa tướng kiêm Xu mật sứ, đô đốc chư lộ quân mã và để hai tướng Ngô, Văn sang Nguyên bàn bạc. Thiên Trường gặp Bá Nhan và nói

Bắc triều nếu coi Tống là một nước thì xin lui quân về Bình Giang hoặc Gia Hưng sau sẽ bàn tới việc khao sư triều cống. Bắc quân nếu toàn quân về nước là thượng sách. Nhược bằng muốn hủy tông miếu triều ta thì Hoài, Chiết, Mân, Quảng, dễ gì mà lấy được, có khi lại mang họa, thắng thua còn chưa biết.

Bá Nhan giữ Thiên Trường lại và để Ngô Kiên ra về, sai Mông Cổ Đại, Phạm Văn Hổ vào thành Lâm An quản lý công việc. Cử Trình Bằng Phi ép thái hoàng thái hậu đầu hàng[9]. Tạ thái hậu sai Ngô Kiên làm Tả thừa tướng, Giả Dư Khánh làm Hữu thừa tướng và Gia Huyễn Ông đến gặp Bá Nhan xin sang Nguyên gặp Nguyên chủ. Bá Nhan để Ngô Kiên cùng Văn Thiên Trường lên bắc, còn mình đưa quân đến sông Tiền Đường. Thái hoàng thái hậu trong cung ngày đêm cầu khấn xin thần linh cho nước sông Tiền Đường dìm chết lũ quân Nguyên, nhưng lạ thay sóng lặng hơi trong ba ngày[4]. Sau đó ít lâu, Bá Nhan đưa quân tiến vào trong thành Lâm An, lệnh tả hữu tuần thú trong thành, thu hết cổn miện, khuê bích, phù tỉ cùng các đồ vật trong cung, bảo ngoạn, xa lộ, liễn thừa, lỗ bộ, huy trượng... Bá Nhan lên núi Sư Tử, Vân Phong ngắm nhìn toàn cảnh Lâm An, sai Phạm Văn Hổ truy đuổi Ích vương và Cát vương ở Mân Quảng.

Thái hoàng thái hậu và Cung Đế muốn gặp Bá Nhan nhưng Bá Nhan nói mình chưa vào triều thì chưa nên làm lễ tương kiến. Sau đó sai Tháp Ha và Mạnh Kì vào cung tuyên chiếu của Nguyên chủ đưa Cung Đế và thái hậu lên bắc. Thái hậu khóc, bảo Cung Đế bái tạ, sau đó Cung Đế, Toàn thái hậu, Phúc vương Dữ Nhuế, Nghi vương Dữ Du, Độ Tông mẫu Long Quốc phu nhân Hoàng thị cùng Dương Trấn, Tạ Đường, Cao Ứng Tùng và ba thái học sinh cùng ra khỏi cung, lên miền bắc. Riêng thái hoàng thái hậu tuổi đã cao thì được ở lại Lâm An. Đó là ngày 4 tháng 2 năm 1276 - Tròn 316 năm sau ngày nhà Tống thành lập. Các đại thần triều Tống ở miền nam về sau hợp sức chống Nguyên, lập ra một triều đình lưu vong do Tống Đoan Tông Triệu Thị và sau đó là Tống đế Bính đứng đầu, tiếp tục chiến đấu với quân Nguyên và tồn tại đến năm 1279 thì bị diệt. Đó cũng là lúc kết thúc triều đại nhà Tống. Còn theo ý kiến của sử gia Tất Nguyên trong Tục tư trị thông giám thì triều Tống kết thúc từ đây, hai vị vua còn lại không được công nhận là hoàng đế Trung Hoa.